Võ sư Trần Huy Phong sinh ngày 28-12-1938 tại làng Quần Phương, xã Hải Trung, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Tên khai sinh của ông là Trần Trọng Bách, sau đổi thành Trần Quốc Huy. Ông là người con thứ tư trong một gia đình gồm bảy anh chị em. Thân phụ của ông là cụ Trần Văn Bảng (1898-1975) và thân mẫu là cụ Trần Thị Nhạn (1913-1993). Theo phả tộc họ Trần, ông là hậu duệ đời thứ 27 của Đức Thánh Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn.
Võ sư Trần Huy Phong (1938-1997)
Võ sư Trần Huy Phong sinh ra ở một miền đất được mệnh danh là địa linh nhân kiệt, và lớn lên trong một gia đình có truyền thống hiếu học cả về văn lẫn võ, cùng với sự thông minh sắc sảo vốn có nên ngay từ nhỏ ông đã bộc lộ ra nhiều tố chất của một người có trí tuệ và khí phách hơn người. Tuy tuổi thơ của ông lớn lên trong thời điểm đất nước vẫn còn dưới ách đô hộ của người Pháp (1884-1945), nhưng nhờ sống trong một môi trường giáo dục thuận lợi theo truyền thống riêng của gia tộc, nên ông đã được học tập và đào luyện một cách bài bản. Hàng ngày, ông được ông ngoại là cụ Trần Văn Khiêm (1879-1949) là một danh y trong vùng chỉ dạy cho nghề bốc thuốc, châm cứu, luyện võ,… Chính nhờ thế, mà khi trưởng thành, ông là một con người có chí khí mạnh mẽ, có tinh thần bất khuất, có tư cách lãnh đạo, có thiên tư phóng khoáng, hào hiệp,… và nhất là có nhân cách rộng lượng luôn sẵn lòng dang tay giúp đời.
Đức tính can đảm và ý chí quật cường của ông đã thể hiện rõ khi còn ở tuổi thiếu niên. Năm 1950, khi ông mới 12 tuổi, vì hoàn cảnh chiến tranh nên gia đình ông mất liên lạc với thân phụ, khi đó đang là Bang Trưởng tại Cẩm Phả. Khi ấy gia đình ông lâm vào cảnh nghèo khổ cùng cực, mẹ ông vì quá lo lắng nên lâm bệnh nặng. Ông quyết định dẫn em trai là Trần Huy Quyền (5 tuổi), đi bộ hàng trăm cây số từ quê nhà lặn lội đi tìm cha. Sau cả tháng trời ròng rã, ông đến được Cẩm Phả và tìm được thân phụ. Cha ông đã cảm động rơi nước mắt, liền quyết định từ chức Bang Trưởng, cõng hai con về quê cứu vợ. Có thể nói, môi trường giáo dục của gia đình, của gia tộc chính là yếu tố tiên quyết tạo nên khí chất con người của võ sư Trần Huy Phong. (Những người anh em ruột của ông là Trần Bản Quế, Trần Thế Tùng, Trần Huy Quyền, Trần Thiện Cơ, Trần Nguyên Đạo… sau này đều trở thành các võ sư có đẳng cấp và vị thế cao trong môn phái Vovinam.)
Năm 1954, sau hiệp định Genève, ông theo gia đình di cư vào Nam. Ngay sau đó ông tình cờ gặp được võ sư Nguyễn Lộc và lập tức theo học Vovinam – Việt Võ Đạo tại võ đường Thủ Khoa Huân. Khi đó ông mới chỉ là một thiếu niên 16 tuổi.
Ngay từ những buổi đầu theo học, ông đã được võ sư Nguyễn Lộc đặc biệt chú ý, bởi ông có căn bản võ thuật và có năng khiếu hơn người, nên đã thăng tiến một cách vượt bậc và trở thành một trong những môn đệ ưu tú, xuất sắc nhất của võ sư Nguyễn Lộc.
Các môn sinh đầu tiên của Võ sư Trần Huy Phong – 1964
Từ trái sang phải: Trần Văn Bé, Nguyễn Văn Hoàn, Dương Hoành San, Trần Văn Trung, Võ sư Trần Huy Phong, Phan Quỳnh, Nguyễn Văn Lễ, Trần Huy Quyền và Lê Công Danh.
Năm 1960, võ sư Nguyễn Lộc qua đời. Cùng lúc ấy Vovinam-Việt Võ Đạo bị chính quyền Ngô Đình Diệm cấm hoạt động, lý do bởi tháng 11 năm 1960 đã diễn ra cuộc đảo chính không thành công của các tướng lĩnh quân đội. Và cuộc đảo chính đó cũng có sự tham gia của một số các võ sư thuộc các môn phái khác, nên sau đó dưới sự thanh trừng quá đà của chế độ thì tất cả các phái võ đều bị vạ lây khi cùng bị đình chỉ hoạt động.
Sau khi môn phái bị cấm, võ sư Chưởng môn Lê Sáng đã cho dời bản môn về Quảng Đức để hoạt động phát triển kinh tế. Nhưng riêng võ sư Trần Huy Phong vốn là một giáo sư toán tại các trường Trung học Sài Gòn vẫn âm thầm đơn phương mở võ đường Vovinam, giảng huấn trong bí mật. Mục đích là để đào tạo ra các nhân tố nòng cốt cho phong trào “Thanh Niên Khỏe Luyện Tập Vovinam”, với đầy đủ ba phương diện: Trí, Đức, Thể. Với hướng đi đó, ông đã phát triển hàng chục võ đường Vovinam-Việt Võ Đạo tại các trường học nơi ông dạy văn hóa. Nhờ đó, dù bị chính quyền cấm đoán gắt gao nhưng phong trào Vovinam-Việt Võ Đạo trong giai đoạn này, không những không bị gián đoạn mà trái lại còn được phát triển mạnh mẽ hơn đến quảng đại quần chúng, thu hút thêm được nhiều môn sinh, nhất là các giới sinh viên, học sinh và trí thức. Kết quả là ông đào tạo được một đội ngũ huấn luyện viên trẻ, tâm huyết, lý tưởng và có một trình độ võ thuật cao. Một tầng lớp các võ sư trẻ trở thành nền tảng đưa đến sự bật phóng cao độ cho các phong trào Vovinam-Việt Võ Đạo sau này.
Tới năm 1964, sau 4 năm bị cấm đoán, môn phái Vovinam được hoạt động trở lại. Lúc này võ sư Trần Huy Phong trở thành phụ tá của Chưởng môn Lê Sáng và nhậm chức vụ Trưởng Ban Nghiên kế. Ông lại tiếp tục cùng ban lãnh đạo bản môn xây dựng bộ máy điều hành, các quy tắc hoạt động, hệ thống hóa các kỹ thuật và chương trình huấn luyện của môn phái. Các võ đường như: Hồ Vũ, Ánh Sáng, Thánh Thomas, Thăng Long, Trí Đức, đền thờ Đức Thánh Trần v.v… là những võ đường tiêu biểu đã đánh dấu sự trỗi dậy, thể hiện tính quật cường và khả năng thích ứng của Vovinam-Việt Võ Đạo trong hoàn cảnh bị o ép, cấm đoán. Có được điều này là nhờ công sức rất lớn của võ sư Trần Huy Phong.
Sự trỗi dậy sau khi lệnh cấm được bãi bỏ, đó là các chương trình võ thuật học đường được tổ chức luyện tập và phát triển mạnh mẽ tại các trường Trung học. Cụ thể như: Chu Văn An, Trưng Vương, Cao Thắng, Gia Long (nay là Nguyễn Thị Minh Khai) và Pétrus Ký (nay là Lê Hồng Phong). Vào thời điểm đó (năm 1965), võ sư Trần Huy Phong và võ sư Mạnh Hoàng vốn là giáo viên tại các trường Trung học Sài Gòn, thường giao lưu và quen biết các giáo giới nên đã thức thời xin giấy phép biểu diễn chiêu sinh tại các trường Trung học nói trên. Liên tiếp hàng trăm lớp võ được khai giảng và chỉ trong một thời gian ngắn đã có hàng nghìn học sinh ghi danh tập huấn Vovinam-Việt Võ Đạo. Qua năm 1966 thì võ sư Trần Huy Phong cùng võ sư Mạnh Hoàng thành lập Trung tâm Huấn luyện Hoa Lư và ông làm giám đốc của Trung tâm này. Đây là một võ đường danh tiếng của Môn phái trước 1975, khi thường xuyên có hàng ngàn môn sinh theo tập và đào tạo ra rất nhiều võ sư hồng đai xuất sắc, hiện đang sinh hoạt khắp nơi trên thế giới.
Từ trái qua phải các võ sư: Ngô Hữu Liễn, Phan Quỳnh, Nguyễn Văn Thư, Lê Sáng,Trần Huy Phong, Nguyễn Văn Thông và Trần Bản Quế – Ảnh tư liệu môn phái.
Năm 1967, võ sư Trần Huy Phong thành lập “Tổng đoàn Thanh niên Việt Võ Đạo”. Một tổ chức thanh niên bao gồm các môn sinh và thanh niên, có mục đích hoạt động các công tác xã hội, từ thiện, văn hóa, giáo dục và các sinh hoạt của giới trẻ. Võ sư Trần Huy Phong cũng là chủ tịch của tổng đoàn này, và cũng là người đề xướng thành công trong việc đưa sinh hoạt võ thuật vào học đường và soạn ra chương trình võ thuật học đường trước 1975.
Đầu năm 1970, võ sư Trần Huy Phong thành lập làng Cộng Đồng Việt Võ Đạo tại xã Tân Tạo (Bình Chánh) với diện tích trên 3 cây số vuông. Ông đã chỉ đạo cho đào hàng chục cây số hệ thống kênh thoát nước rửa phèn, thành lập khu dân cư với trên một nghìn hộ gia đình, đồng thời ông cùng một số thân hữu thành lập Hợp Tác Xã Nông Nghiệp Việt Võ Đạo để khai thác nông sản phẩm của khu cộng đồng này. Các hoạt động này giúp cho cộng đồng môn sinh Việt Võ Đạo có chỗ dựa kinh tế để theo đuổi việc học tập võ thuật lâu dài. (Sau ngày thống nhất đất nước thì cộng đồng này đã được chính quyền chuyển đổi thành vùng Kinh tế mới Dương Minh Xuân).
Cùng trong năm 1970, võ sư Trần Huy Phong cùng các nhân sĩ và nhiều đoàn thể văn hóa, tổ chức tôn giáo tại miền Nam như: Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành, Hòa Hảo, Cao Đài, v.v… thành lập Ủy Ban vận động dựng đền thờ Quốc tổ Hùng Vương. Trụ sở được đặt tại Trung tâm Huấn luyện Hoa Lư. Từ đó hàng năm nhân dịp lễ giỗ tổ Hùng Vương, các cơ quan chính quyền, các đoàn thể và mọi tầng lớp nhân dân đều tập trung tại đây để dâng hương, lễ bái.
Năm 1973, võ sư Chưởng môn Lê Sáng ban hành tiêu chuẩn tuyển chọn người kế nhiệm. Theo đó mười võ sư cao cấp trong môn phái sẽ luân phiên đảm nhận chức vụ Tổng cục trưởng Tổng cục huấn luyện (mỗi người một năm). Võ sư Trần Huy Phong là người đầu tiên được giao phó trọng trách này vào tháng 7-1974, đồng thời kiêm nhiệm cả chức vụ Giám đốc Văn phòng Phát triển Việt Võ Ðạo quốc tế của môn phái. Khi bước vào vai trò này, võ sư Trần Huy Phong đã có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng đặt nền móng cho việc phổ biến môn phái ra thế giới. Ông cũng không quên chú trọng đến việc đặt ra kế hoạch phát triển Vovinam-Việt Võ Đạo ở trong nước một cách rộng rãi hơn, theo đó mỗi nơi phải có một trụ sở và võ đường lớn làm hạt nhân. Tiếp theo đó là hàng loạt các võ sư, huấn luyện viên được cử đi các tỉnh để xây dựng và phát triển phong trào Vovinam-Việt Võ Đạo, như: Trần Tấn Vũ (Phú Yên), Ngô Kim Tuyền (Bình Dương), Nguyễn Văn Chiếu (Quy Nhơn), Nguyễn Văn Sen (Cần Thơ), Trần Văn Mỹ (Hậu Giang), Dương Minh Nhơn (Kiên Giang), Nguyễn Tôn Khoa (An Giang), Nguyễn Văn Vang (Vĩnh Long), Nguyễn Văn Ít (Mỹ Tho)…
Sau khi đất nước thống nhất. Do bối cảnh lịch sử khi ấy còn nhiều bất cập nên môn phái Vovinam tiếp tục bị chính quyền đình chỉ các hoạt động. Dù vậy, võ sư Trần Huy Phong vẫn cùng Võ sư Chưởng môn và các võ sư cao cấp khác trong môn phái đồng lòng cương quyết, dũng cảm,… tiếp tục âm thầm con đường phát triển môn phái trong sự cấm đoán, để nó không bị mai một.
Năm 1986, võ sư Trần Huy Phong trở thành Chưởng môn đời thứ ba của môn phái Vovinam. Ông đã giữ cương vị này đến năm 1990, nhưng sau đó bàn giao lại cho võ sư Lê Sáng để dành thời gian tập trung nghiên cứu võ thuật.
Năm 1992, sau khi chính quyền chính thức cho phép hoạt động trở lại, võ sư Trần Huy Phong thành lập ra Võ đạo quán Cây Tre. Đây là một trong những cơ sở huấn luyện võ thuật tư nhân đầu tiên của Việt Nam sau thời kỳ Đổi Mới. Và ông cũng là người đã đứng ra vận động và tổ chức các giải vô địch Vovinam – Việt Võ Đạo toàn thành phố (1992) và toàn quốc (1993), đây là những giải đấu đầu tiên của Môn phái kể từ sau năm 1975.
Trong lĩnh vực văn hóa giáo dục, tiêu biểu nhất và đồng thời cũng là tâm nguyện cháy bỏng nhất của võ sư Trần Huy Phong là việc thành lập Viện Đại học Hùng Vương. Trong đó, ông chủ trương Vovinam-Việt Võ Đạo sẽ là bộ môn Giáo dục Tâm Thể. Vì thế vào năm 1974, ông đã cùng các vị trí thức miền Nam lúc bấy giờ như: Ngô Gia Hy, Nguyễn Huy, Hoàng Xuân Định, Nguyễn Trí Văn, v.v… tổ chức thành lập Viện Đại học tư thục Hùng Vương. Giấy phép đã được cấp, nhưng không thực hiện được vì ngay sau đó chế độ Việt Nam Cộng Hòa bị sụp đổ ngày 30-04-1975. Ước vọng này lại được ông khơi động trở lại năm 1991 cùng với các ông: Ngô Gia Hy, Nguyễn Chung Tú, Phan Tấn Chức, Nguyễn Nhã, Hà Bính Thân… và đến năm 1993 thì ước vọng được toại nguyện. Ngày 03-11-1993, Bộ Giáo dục và Đào tạo, ra quyết định (số 2395/QĐ-TCCB) cho phép thành lập Viện Đại học Dân lập Hùng Vương, trụ sở được đặt tại chính nhà riêng của võ sư Trần Huy Phong, số 97 đường Hoàng Văn Thụ – Tp.HCM.
Võ Đạo Quán Cây Tre năn 1993
Võ sư Trần Huy Phong và phái đoàn của Liên đoàn Vovinam-Việt Võ Đạo Pháp
Viện Đại học Hùng Vương trong ban đầu chỉ có 3 phân khoa, gồm: Tin học, Y khoa và Quản trị. Riêng khoa Giáo dục Tâm Thể Vovinam-Việt Võ Đạo, tuy giáo trình đã được soạn thảo, nhưng không phát triển được vì sau đó võ sư Trần Huy Phong lâm bệnh hiểm nghèo phải bỏ dở công trình qua Pháp điều trị. Tháng 12-1997, ông qua đời và mang theo ước vọng dang dở là đại học hóa nền võ học Việt Nam. Tuy nhiên hiện nay Đại học Hùng Vương vẫn tiếp tục hoạt động giảng dạy và hàng năm đã đào tạo hàng trăm sinh viên với tiêu chí “Trung nghĩa, Tự tin, Trách nhiệm”, đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp chấn hưng và bảo tồn nền văn hóa Việt Nam.
Năm 1994, võ sư Trần Huy Phong lâm bệnh nan y. Ông được em trai là võ sư Trần Nguyên Đạo đưa sang Pháp điều trị. Dù bị những cơn đau hành hạ trong suốt ba năm cuối đời, võ sư Trần Huy Phong vẫn dũng cảm chịu đựng và hoàn tất tác phẩm Cách Mạng Tâm Thân, để lại một gia tài văn hóa quý báu cho môn phái và các thế hệ hậu sinh.
Song song với việc mài mẫn viết sách, ông biết rằng quỹ thời gian mình không còn được bao lâu nữa! Và đồng thời ý thức được vị trí quan trọng của mình với môn phái. Ngày 19-03-1995, từ bệnh viện Gustave Roussy (Pháp) ông đã viết một bức tâm thư gửi toàn thể các võ sư trên thế giới, thiết tha kêu gọi các võ sư hãy cùng nhau phá bỏ mọi tị hiềm, mặc cảm, phe phái để cùng kết đoàn tìm kiếm một giải pháp tương lai cho Môn phái. Lời kêu gọi này gây xúc động mạnh đến toàn thể các võ sư trên thế giới và nhận được hàng trăm bức thư hưởng ứng lời kêu gọi của ông đến từ khắp năm châu.
Tháng 7 năm 1997, võ sư Trần Huy Phong trở về Việt Nam đoàn tụ cùng gia đình và các đồng môn. Ông qua đời ngày 13 tháng 12 năm 1997 tại Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 59 tuổi.
Võ sư Trần Huy Phong ra đi để lại niềm thương tiếc vô hạn trong lòng cộng đồng các võ sư và môn sinh Vovinam cả ở trong và ngoài nước. Tuy nhiên, dù ra đi mãi mãi nhưng ông đã để lại nhiều công trình nghiên cứu có giá trị, đóng góp to lớn cho môn phái và cho các thế hệ Vovinam – Việt Võ Đạo mà còn cho cả cộng đồng xã hội. Ông cũng đã đào tạo ra rất nhiều môn đệ. Và những con người ấy hiện nay đã và đang tiếp bước đi theo con đường cao đẹp mà ông đã lựa chọn. Ông đã ghi vào đời sống xã hội một dấu ấn đậm nét bằng sự tận hiến cho môn phái, cho dân tộc đến hơi thở cuối cùng. Qua những di sản mà võ sư Trần Huy Phong đã để lại cho đời, ông thực sự xứng danh là một trong những người Việt Nam kiệt xuất trong thế kỷ 20.
Vovinam Digital
(Tổng hợp từ các tư liệu của môn phái và báo chí)